Thứ Hai, 7 tháng 11, 2016

Người nông dân và 3 điều ước - nhìn thấu tâm đố kỵ của con người

Có câu chuyện kể rằng, một vị Thiên sứ đến nhà một người nông dân và nói với ông ấy: “Thượng đế thấy con tốt bụng, nên ban cho con ba điều ước. Nhưng kèm theo một điều kiện: dù là con ước điều gì thì người hàng xóm của con đều có cơ hội được hưởng phúc gấp hai lần con”.
Đàn ông chỉ cần 3 ngày yêu đương là muốn "lên giường", còn phụ nữ thì cần 3 tháng!
Đức Phật bàn về chuyện ngoại tình, vợ chồng ngày càng chán nhau, hôn nhân ngày càng bất hạnh
Hãy sống thế này, cả đời phụ nữ sẽ không phải rơi giọt nước mắt nào vì đàn ông nữa
Nếu có 8 dấu hiệu này, khả năng lớn bạn sẽ có cuộc sống giàu sang, sung túc
 Người nông dân đó quá đỗi vui mừng, nói: “Hãy ban cho con một núi thóc gạo, để một năm trời con không lo thiếu lương thực”. Sáng sớm ngày hôm sau, quả nhiên trước cửa gạo chất thành đống tựa như một quả núi nhỏ. Lão nông dân vô cùng cao hứng, chuẩn bị tu sửa kho thóc để chứa số gạo kia. Thế nhưng, chợt ông lão nhìn thấy trước cửa nhà hàng xóm có đến hai đống gạo tựa như hai quả núi nhỏ, cặp vợ chồng hàng xóm này bình thường rất nghèo khó, nên mừng quýnh lên và vội vội vàng vàng ra sân mà vơ lấy, điều này khiến lão nông kia trong tâm không sao chịu nổi.

Mấy hôm sau, vị Thiên sứ kia lại đến, lão nông dân liền ước điều ước thứ hai: “Ước sao Thượng đế ban cho con một mụn con”. Quả nhiên, mười tháng sau, vợ của người nông dân liền sinh hạ một bé trai rất kháu khỉnh. Người nông dân vui mừng, mình đã có con trai, một việc đại hỷ đến nhường nào! Hàng xóm sau khi nghe tin vui, liền mang trứng gà sang chúc mừng, đồng thời cũng vui mừng mà báo tin vui cho lão nông dân kia: “Đêm hôm trước, bà nhà tôi cũng vừa sinh hạ, còn sinh đôi nữa”.

Lão nông dân trong tâm vô cùng khó chịu, hàng xóm kia vừa nghèo vừa không có khả năng, người vợ thì mặt toàn nếp nhăn, vừa thấp vừa xấu, vì cớ gì mà lại sinh đôi được một trai một gái kia chứ?

Nhá nhem tối ngày hôm đó, Thiên sứ lại một lần nữa hạ thế, muốn lão nông dân đề xuất điều ước thứ ba của mình. Lúc này, lão nông dân quỳ trên mặt đất thống khổ nói: “Thưa Thiên sứ, cầu xin người hãy chém đứt một tay của con được không?”. Thiên sứ ngạc nhiên: “Vì sao lại thế?”. Lão nông dân nói: “Con quả thực không sao hiểu nổi, tại sao người hàng xóm của con lại được gấp đôi phúc báo? Tại sao thế ạ? Con thà mất đi một cánh tay, cũng là vì muốn cho ông ta bị mất đi hai cánh tay, làm vậy thì trong tâm con mới thấy đôi chút dễ chịu”.

Một lúc lâu không thấy Thiên sứ nói gì, lão nông dẫn liền ngẩng đầu lên nhìn Thiên sứ, thấy Thiên sứ lệ rơi đầy mặt, nói:

“Ngươi hà tất phải hủy hại bản thân, lại còn làm hại người khác nữa? Ngươi biết không? Ngươi từng tu đạo, chính vì bởi tâm tật đố không buông bỏ được mà tu không thành, kiếp này rơi rớt đến cõi hồng trần này mà chịu khổ. Còn người hàng xóm của ngươi, đã từng là sư phụ của ngươi, phúc đức của ông ấy vĩnh viễn lớn hơn của ngươi gấp bội, ông Trời hồi báo cho ông ấy là chủ yếu, ngươi vì sao không nghĩ cho thấu đáo thế?

Hơn nữa việc này, cũng là đã được an bài cả rồi. Nếu như ngươi có thể không đố kỵ như vậy, khi thấy hàng xóm có chuyện tốt, thì lẽ ra nên nói lời chia vui với họ, thì sinh mệnh của ngươi cũng sẽ đắc phúc báo còn hơn rất nhiều”.

Lão nông dân liền tỉnh ngộ, đáng tiếc là hiểu ra quá muộn màng, không còn cơ hội nữa, ông ấy nhìn Thiên sứ biến mất, mà ra sức đập đầu của mình xuống đất tỏ ý hối tiếc khôn thấu.


Lòng đố kỵ bất cứ ai cũng có, đó là điều chắc chắn. Tuy nhiên, cách người ta đối diện với nó như thế nào mới là vấn đề. Có những người giữ nó trong tim, âm thầm từng chút một, biến nó thành ám ảnh, còn có những người thông minh hơn, biến nó thành động lực để phấn đấu vươn lên.

Thấy người tài giỏi, danh tiếng tốt, đạo cao đức trọng, mình sanh lòng đố kỵ ghen ghét. Thấy người vinh hiển, mình lấy làm bực tức khó chịu, trong lòng xốn xang, lộ ra cử chỉ không bằng lòng rồi kiếm chuyện nói xấu, làm cho giảm uy tín người đó. Những chuyện như thế này không thiếu trong xã hội ngày nay.

Ganh ghét và đố kỵ hầu như thể hiện ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực và mọi mặt trong cuộc sống. Dễ nhận thấy nhất là khi ai đó có thành tích, địa vị, vinh dự, chuyên môn, bằng cấp, của cải, nhân duyên, gia đình hạnh phúc, thành đạt là nảy sinh ganh ghét, đố kỵ… Có người thể hiện lòng ganh ghét, đố kỵ ra ngoài, nhưng có người lại “chôn kín” ở trong lòng. Nhưng dù bất cứ hình thức nào, lòng ganh ghét, đố kỵ đều ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống và công việc.

Tật đố kỵ khác với sự ích kỷ nhưng lại bao hàm sự so sánh, hiềm hận và ganh tỵ. Vì sự ganh ghét trong việc thua kém hơn người khác nên ta tỏ ra thái độ đố kỵ, hiềm hận, thậm chí chúng ta còn mong muốn họ gặp thất bại trong cuộc sống.

Người có tâm đố kỵ, trước hết chính người chịu nhiều bất hạnh nhất. Họ đau khổ, dằn vặt, không có phút nào được yên. Phật dạy: “Khổ tâm lớn nhất của đời người là sự ganh ghét, đố kỵ. Người có tâm ganh ghét, tật đố sẽ khổ sở dai dẵng trong lòng.

Tâm đố kỵ không những hại mình mà còn hại ngươi khác, đối với người tu luyện lại càng cực kỳ nghiêm trọng. Vậy nên, chúng ta nhất định cần phải tu bỏ.

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2016

Người nông dân: NẾU ÔNG TRƯỞNG THÔN NGHĨ ĐƯỢC NHƯ...

Bài viết trên Facebook của anh CaoBao Do (https://www.facebook.com/caobao.do.90), NGƯỜI NÔNG DÂN tôi thấy có ông trưởng thôn nhà mình nên xin anh được đăng lại lên đây để bà con hàng xóm hiểu hơn về cái anh trưởng thôn đang bị gạch-đá, kể cũng tội!



Năm tôi lên 8 tuổi, máy bay Mỹ ném bom đánh sập một cây cầu cách nhà tôi 450 mét, làm chết và bị thương hàng chục người, thế là tờ mờ sáng hôm sau 4 chị em tôi (lớn nhất 10t, nhỏ nhất 2t) gồng gánh đi sơ tán xuống một vùng quê và sống tự lập ở đó 3 năm cho đến khi Mỹ ngừng ném bom miền Bắc lần thứ nhất.
Vì đang chiến tranh ác liệt, lương thực của nhà tôi chỉ toàn bột mỳ. Ở vùng quê không có lò làm bánh mỳ, không có bột nở để làm bánh bao, nên 4 chị em tôi toàn ăn bánh mỳ luộc, mỗi bữa được 3 nắm nhỏ bằng 1/3 nắm tay, rắn như cục gạch, đói thì hái rau dền dại mọc ven đường, rau lang, luộc ăn cho đỡ đói.
Hàng xóm nhà tôi, mấy bác nông dân khá hơn, có đủ cơm trắng, gạo thơm mùi lúa mới. Thương 4 chị em tôi mang tiếng là con cán bộ mà mỗi bữa chỉ có 3 nắm mì luộc đen nhẻm, rắn như đanh, nên cứ đến bữa cơm, bác hàng xóm lại sai cậu con trai mang một bát cơm trắng muốt đầy ắp sang, lấy cớ là thèm bánh mỳ để đổi cho cậu em út tôi, lấy đúng một cái bánh mỳ luộc. Còn tôi thì thỉnh thoảng bác dúi cho khi thì củ khoai lang, khi thì bắp ngô luộc, chưa kể khi thì bát canh cua, khi thì quả cà, gắp dưa muối.
Thế đấy người nông dân Việt Nam sống nặng tính cộng đồng, tình làng nghĩa xóm, khi hoạn nạn, khi khó khăn họ sẵn sàng sẻ chia, đùm bọc lẫn nhau, vượt qua hoạn nạn.
Cách đây 3 năm, cũng một đợt lũ lụt, tại 1 lớp học, có 45 học sinh, hầu hết gia đình các em đều mất trắng, thế nhưng đoàn từ thiện chỉ có 20 xuất quà và đề nghị cô giáo tổ chức bình bầu chọn ra 20 em nhà nào nghèo, khổ nhất. Khi bình bầu, nhìn những ánh mắt thơ ngây trông ngóng của cả 45 em, nước mắt cô giáo chảy dài, vì không thể bầu được ai khổ hơn ai.
Với tư duy ấy, cách nghĩ ấy, ông trưởng thôn ở Ba Đồn, Quảng Bình đã thu lại tiền cứu trợ của 40 hộ và phân chia lại cho cả thôn hơn 400 hộ. Đấy chính là nguồn cơn của cơn bão dư luận lên án ông, chửi bới ông, dọa cách chức ông.
Là trưởng thôn, đã nhiều lần sau thiên tai, ông đã trực tiếp chứng kiến rất nhiều đợt, do thiếu thông tin, các nhà tài trợ đã vô tình tạo nên sự bất bình đẳng: có nhà được nhận tài trợ 2-3 lần, có nhà thiệt hại không kém lại không được nhận tài trợ lần nào. Nhà được tài trợ nhiều thì vui mừng, nhà không được tài trợ thì buồn tủi, mà đã lũ, lụt thì nhà nào chả bị ngập, nhà nào chả thiệt hại, nhà nào chả thiếu ăn.
Là trưởng thôn, ông không thể không thương những nhà không được tài trợ, là trưởng thôn, ông có trách nhiệm xây dựng sự đoàn kết, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau trong thôn. Chính vì vậy ông chỉ nghĩ đơn giản: Đợt này thu lại của 40 nhà này, chia lại cho 400 nhà còn lại, đợt sau lại thu của 40 nhà khác, chia lại cho 400 nhà còn lại. Khi có nhà không đồng ý thu, ông nói nếu không "lần sau ông không đưa vào danh sách nhận cứu trợ nữa".
Từ câu nói "lần sau không đưa vào danh sách nhận cứu trợ", nhà báo và nhiều người suy diễn là ông doạ nạt. Thật ra ý ông là thế này: "lần sau khi có nhà tài trợ hỏi, tôi sẽ nói nhà bà nghèo, thiệt hại lớn nhất, nhưng vừa được nhận tài trợ 2 triệu rồi, còn nhà kia thiệt hại ít hơn, nhưng chưa được nhận tài trợ lần nào". Nói như thế là minh bạch, là đúng sự thật, và ông tin rằng nhà tài trợ sẽ không tài trợ tiếp nhà bà ấy nữa, vậy bà chọn đi.
Là nông dân, thật thà, chất phác, ông nghĩ sao nói vậy, không văn hoa, không dài dòng. Chúng ta đừng lấy tư duy của người có tri thức, có học hành, áp đặt, bắt ông phải nghĩ được như mình.
Có người trách "tiền tài trợ là tài sản của cá nhân người nhận, ông ấy không có quyền thu, thu là ăn cướp". Xin thưa rằng ông ấy chỉ chia tiền tài trợ, chứ có chia tài sản của dân đâu. Có người trách "ông ấy muốn thu lại để chia đều thì việc đầu tiên là ông ấy phải hỏi ý kiến nhà tài trợ". Xin thưa rằng nếu ông ấy đủ hiểu biết để nghĩ và làm như các vị muốn thì bây giờ ông ấy cũng đang mặc comple, ngồi máy lạnh, gõ bàn phím, chơi facebook, viết comment như các vị, có khi còn làm sếp các vị, việc gì ông ấy phải làm ông nông dân một nắng hai sương, việc gì ông ấy phải làm trưởng thôn để mà các vị ném gạch, ném đá không thương tiếc.
Đừng nghĩ trưởng thôn là cái chức gì to tát lắm, đừng nghĩ trưởng thôn như cường hào, ác bá. Trưởng thôn cũng chỉ là người nông dân, lam lũ, một nắng hai sương, thật thà, chất phác. Trưởng thôn là do dân bầu, cái chức mà người ta vẫn gọi là: "Ăn cơm nhà, vác tù và hàng Tổng" ấy, quyền rơm, vạ đá lắm, không sung sướng gì đâu.
Mọi người chửi bới, lên án ông, ông chủ tịch Tỉnh còn dọa cách chức ông.
Mà cần gì dọa nhỉ, "ông đã xin thôi mấy lần, mà đã cho ông nghỉ đâu". Hơn nữa, nhân dân bầu ông trực tiếp dân chủ đấy chứ, có phải ông chủ tịch Tỉnh ban phát đâu mà ông chủ tịch Tỉnh đòi cách chức ông.
Ờ mà cách chức thì ông nghỉ, về chăm lo cho mảnh vườn, ruộng lúa nhà ông, chăm lo cho vợ con ông. Ai chửi ông thì ra mà làm trưởng thôn đi, ông bầu cho đấy.
Theo  CaoBao Do - https://www.facebook.com/caobao.do.90

Thứ Tư, 19 tháng 10, 2016

Người nông dân: Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao

Nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia… Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.

Chủ tịch nước Trần Đại Quang phát biểu tại 
Chương trình “Tự hào nông dân Việt Nam” 
và trao danh hiệu “Nông dân Việt Nam xuất sắc 2016”.

Đó là một trong những nội dung bài phát biểu của Chủ tịch nước Trần Đại Quang tại chương trình “Tự hào nông dân Việt Nam” và trao danh hiệu “Nông dân Việt Nam xuất sắc 2016”, diễn ra vào tối 14/10 tại Hà Nội.
...
Theo Dân trí 
Đọc đến đây NGƯỜI NÔNG DÂN tôi thấy đã vui quá rồi, lâng lâng quá rồi. Chi tiết mời các bác đọc tại Dân trí (chi tiết bài viết trên Dân trí).


Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2016

Người nông dân: Biến cố tốt hay xấu đều điêu đứng

TTO - Chương trình nông thôn mới đã được triển khai rộng khắp cả nước. Nhưng sau 5 năm thực hiện, mục tiêu nâng cao đời sống người nông dân đạt hiệu quả không cao. Tại sao?

“Người nông dân phải chủ động thay đổi cuộc sống của mình như tầng lớp doanh nhân đang tự vươn mình đứng lên trong phong trào “khởi nghiệp” hiện nay. Đây mới là điều quan trọng nhất" - TS Đặng Kim Sơn

Trao đổi với Tuổi Trẻ, TS Đặng Kim Sơn - chuyên gia về nông nghiệp - nói:
- Trước hết phải khẳng định từ khi nghị quyết về “Nông nghiệp, nông thôn và nông dân”, sau đó là Chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới được triển khai đã góp phần thay đổi nhận thức và hành động của cả nước.
Ngoài khía cạnh kinh tế nông nghiệp, mọi người chú ý hơn đến xã hội, khía cạnh môi trường, khía cạnh đời sống của 70% dân số cả nước sống ở nông thôn.
Đường làng ngõ xóm, giao thông nông thôn phát triển. Việc dồn điền đổi thửa diễn ra rất quyết liệt ở Bắc Trung bộ và đồng bằng sông Hồng, còn phía Nam xuất hiện những cánh đồng lớn. Điện, viễn thông, y tế, giáo dục... ở nông thôn 
thay đổi hoàn toàn.
Tuy nhiên, hướng phát triển hầu như chỉ nhắm vào cơ sở hạ tầng, dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước, trông chờ vào quyết định và chỉ đạo của cấp trên thì không vững bền.
Nông dân đang phải đương đầu với những vấn đề rất phức tạp, vượt ra khỏi câu chuyện “điện, đường, trường, trạm...”.
Thực tế cho thấy hễ xảy ra biến cố, không nói đến việc xấu, ngay biến cố tốt cũng làm người nông dân điêu đứng như đẻ thêm con, có con đậu đại học...
Để có đồng ra đồng vào, họ phải ly hương đi làm ăn và chịu rủi ro trăm bề. Vấn đề rộng lớn hơn là người nông dân chưa rõ con đường, chưa rõ cơ hội đi vào xã hội tương lai.
* Cái không ổn ở đây phải chăng là cách làm nông thôn mới 5 năm qua chỉ dựa vào bề nổi là dự án, công trình mà chưa thay đổi về chất là đi vào nâng cao sản xuất, giúp người nông dân tăng thu nhập?
- Mô hình phát triển kinh tế lấy công nghiệp và đô thị làm động lực đi trước thời gian qua đã làm nông thôn bị tụt hậu.
Khoảng cách đó bị khoét rộng ra bởi biến đổi khí hậu, hội nhập toàn cầu. Nói cách khác, cả chiến lược bên trong lẫn hoàn cảnh bên ngoài đều đang đặt nông thôn vào thế yếu, thế bị động.
Mọi người đều thống nhất là phải thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn với thành thị, giữa miền xuôi và miền ngược...
Nếu hi vọng theo cách cũ: dốc sức cả nước đưa thành thị, công nghiệp phát triển mạnh trước rồi dùng thuế, dùng chính sách để điều tiết trở lại cho nông thôn thì 
khoảng cách chỉ thêm xa hơn.
* Khu vực nông thôn đang rất khó khăn, nếu không hỗ trợ bằng nguồn lực sẽ làm bằng cách nào?
- Nông dân không cần sự bù đắp, họ có thực lực nhưng chưa có điều kiện để phát huy.
Vấn đề chính là phải tạo được cơ hội để bản thân nông dân vượt qua ngưỡng có thu nhập đủ sống hiện nay, vượt lên mức có tích lũy để tái sản xuất mở rộng.
Nông dân và doanh nhân phải thực sự được sản xuất, kinh doanh theo quy luật thị trường lành mạnh. Những vướng mắc trong sử dụng đất đai, trong quản lý khoa học công nghệ, trong xuất khẩu lúa gạo... phải triệt để tháo gỡ.
Nếu nông dân không thiết tha với đất đai, nếu doanh nghiệp không mong muốn đầu tư vào nông thôn chắc chắn chính sách 
của Nhà nước có vấn đề.
* Vậy theo ông là phải thay đổi tư duy về cách làm nông thôn mới?
- Đúng vậy. Mục tiêu xây dựng nông thôn mà nhiều người cho là mới, là hiện đại hôm nay sẽ lạc hậu ngày mai.
Phát triển nông thôn phải là tạo động lực để nông dân làm giàu, trước hết nhờ đầu tư xúc tác, hỗ trợ của Nhà nước, đầu tư của doanh nghiệp và quan trọng nhất là sự kết nối, phối hợp của toàn nền kinh tế.
Kinh nghiệm phát triển quốc tế, nhất là ở Đông Á, đã chứng minh nông thôn và thành thị chỉ có thể kết nối bằng “phát triển lan tỏa” và “phát triển bao gồm”, tức là kinh tế, xã hội đô thị phải liên thông với nông thôn, sản xuất công nghiệp, dịch vụ phải gắn với nông nghiệp.
Các doanh nghiệp, mỗi gia đình, từng người lao động có được tích lũy ở lĩnh vực này lập tức vốn chảy ngay sang đầu tư thúc đẩy lĩnh vực kia.
Nông nghiệp có vốn mới chuyển được công nghệ, tập trung được đất đai, kinh tế nông thôn mới đủ sức phát triển sang phía phi nông nghiệp.
Lao động mới có cơ hội ly nông mà không ly hương. Nông dân mới có điều kiện tăng thu nhập và có tích lũy để phát triển như người đô thị.
* Nghĩa là Nhà nước phải mở cho người dân nông thôn có con đường đi vào xã hội tương lai?
- Nhà nước và toàn dân phải thay đổi căn bản tư duy. Nông thôn mới không còn chỉ là nông thôn. Đó là đất nước mới.
Chắc tương lai không xa, tỉ lệ người dân nông thôn đang chiếm 70% dân số cả nước sẽ chỉ còn 20-30% thôi. Phần lớn ruộng đất đang trong tay nông dân sản xuất nhỏ sẽ phải giao lại cho người tập trung sản xuất, đồng thời chuyển sang làm những nghề phi nông nghiệp.
Việc làm con đường, xây ngôi trường... có thể cải thiện một phần cuộc sống bây giờ nhưng hoạt động đó chỉ có ý nghĩa thực sự khi trở thành giải pháp để họ tự tin vào chính sức mạnh của bản thân, tin vào sự phối hợp, liên kết với nhau.
Thay đổi bằng được tư duy, nhận thức để đi đến thay đổi hành vi, cách sống, cách làm việc của cư dân nông thôn là biện pháp căn bản để người nông dân đứng lên tự cứu mình và giúp nước.
Theo Tuổi trẻ Online

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2016

Người nông dân và vấn đề Tâm lý học

Trong quá trình vận động và phát triển của mỗi dân tộc trên thế giới, các dân tộc đều hình thành truyền thống văn hoá đặc trưng cho dân tộc mình. Văn hoá là sản phẩm của con người và tự nhiên, nên mọi sự khác biệt trong truyền thống văn hoá của các dân tộc là do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên (địa lý - khí hậu) và xã hội (lịch sử kinh tế) quy định. Trong phát triển kinh tế hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế giữa các nước là một tất yếu và như vậy sẽ dẫn đến sự "va chạm" giữa các nền văn hoá khác nhau. Trong đó, những đặc điểm tâm lý của dân tộc là "cốt lõi" tạo nên sự thuận lợi hoặc cản trở trong quá trình hội nhập. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến những đặc điểm tâm lý của người nông dân Việt Nam (80% dân số Việt Nam làm nông nghiệp) ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hội nhập kinh tế hiện nay ở Việt Nam.

Ở Việt Nam, người nông dân sống phụ thuộc vào thiên nhiên rất nhiều. Họ sống cố định một chỗ, ở dưới một mái nhà với mảnh vườn của mình được bao bọc bởi luỹ trẻ làng bảo vệ. Trong sản xuất, người nông dân phụ thuộc vào nhiều hiện tượng của tự nhiên như trời, đất, nắng, mưa... Bởi vậy mà họ rất tôn trọng, hoà thuận với tự nhiên và phụ thuộc vào nó. Sống phụ thuộc vào tự nhiên làm người nông dân dễ trở nên rụt rè, thụ động. Người Việt đã tích luỹ được những kinh nghiệm hết sức phong phú trong sản xuất. Đó là hệ thống tri thức thu được bằng con đường kinh nghiệm chủ quan, cảm tính. Trong quan hệ ứng xử giữa con người với nhau từ gia đình đến làng xóm đều theo nguyên tắc trọng tình (duy tình). Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau là một môi trường thuận lợi để người nông dân tạo ra một cuộc sống hoà thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình (tục ngữ). Lối sống trọng tình cảm sẽ tất yếu đẩy cái "lý" (luật pháp) xuống hàng thứ hai.
Lối sống trọng tình đã dẫn đến cách ứng xử hết sức linh hoạt và thích ứng nhanh với điều kiện hoàn cảnh cụ thể: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, Đi với bụt mặc áo cà sa/ Đi với ma mặc áo giấy (tục ngữ). Với nhu cầu sống hòa thuận trên cơ sở cái gốc là tình cảm giữa con người với nhau trong làng xóm càng làm cho lối sống linh hoạt trở nên đậm nét và chính là cơ sở tâm lý hiếu hòa trong các mối quan hệ xã hội dựa trên sự tôn trọng và cư xử bình đẳng với nhau. Do vậy, người nông dân hết sức coi trọng tập thể, cộng đồng, làm việc gì cũng phải tính đến tập thể. Lối sống linh hoạt, trọng tình, dân chủ là những đặc điểm tích cực, nhưng mặt trái của nó là đặc điểm tâm lý áp đặt, tuỳ tiện, tâm lý "hòa cả làng", coi thường phép nước (pháp luật): "Phép vua thua lệ làng", "Đưa nhau đến trước cửa quan, bên ngoài là lý bên trong là tình”.
Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên. Do vậy, người nông dân phải dựa vào nhau để chống chọi lại với thiên tai. Hơn nữa, nền nông nghiệp lúa nước lại mang tính thời vụ rất cao, điều đó có nghĩa là mọi người phải liên kết lại với nhau, hỗ trợ nhau cho kịp thời vụ. Do đó, tính cộng đồng là một đặc điểm tâm lý đặc trưng của người Việt Nam trong văn hóa làng xã. Ở Việt Nam, làng xã và gia tộc (họ) nhiều khi đồng nhất với nhau. Bởi vậy, gia tộc trở thành một cộng đồng gắn bó và có vai trò quan trọng đối với người Việt. Sức mạnh của gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương yêu nhau. Người trong họ có trách nhiệm cưu mang, hỗ trợ nhau về vật chất, tinh thần và dìu dắt, làm chỗ dựa cho nhau về chính trị (Một người làm quan cả họ được nhờ). Quan hệ huyết thống là cơ sở của tính tôn ti: người sinh ra trước là bậc trên, người sinh ra sau là bậc dưới. Tính tôn ti trong trật tự của các dòng tộc đã dẫn đến mặt trái của nó là tâm lý gia trưởng, trọng nam khinh nữ và đặc biệt là tâm lý địa phương, cục bộ. Đây là một rào cản rất lớn trong quá trình hội nhập của người nông dân Việt. Làng xã Việt Nam như một vương quốc thu nhỏ với luật pháp riêng (hương ước) tạo nên một sự cố kết, bền vững của làng xã và cũng đã tạo nên tâm lý bè phái, địa phương, ích kỷ. Hương ước của làng xã chính là hệ thống giá trị, chuẩn mực của làng xã, nó quy định cung cách ứng xử, lối sống của cá nhân trong làng, tạo nên sự đồng nhất, mà trước hết là trong dòng họ. Sự đồng nhất mà cơ sở là tính cộng đồng có mặt tích cực là làm cho mọi người luôn đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau (trong dòng họ trước hết) như: Chị ngã em nâng (tục ngữ). Nhưng mặt trái của tính đồng nhất là ý thức về cá nhân bị thủ tiêu.
Sự đồng nhất (giống nhau) dẫn đến chỗ người nông dân Việt Nam hiện nay nhiều khi có thói quen dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể, vào số đông: Nước nổi thì thuyền nổi hoặc Cha chung không ai khóc (tục ngữ). Cũng từ đó, một nhược điểm của họ là tâm lý cào bằng, đố kỵ, không muốn cho ai hơn mình (để cho tất cả mọi người đồng nhất, như nhau) - Xấu đều hơn tốt lỏi (tục ngữ) - vẫn còn biểu hiện ở không ít địa phương.
Ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam hiện nay, người ta coi trọng cái tiếng (danh dự) hơn các thứ khác. Do vậy, họ sẵn sàng chết đói, chết rét, chết bom, chết đạn để che chở, nuôi nấng cho con cháu mình được học hành, đỗ đạt.
Tâm lý sĩ diện trong đời sống làng xã của người nông dân dẫn đến tính khoa trương, trọng hình thức. Mặc dù đời sống kinh tế hiện nay của người nông dân văn còn khó khăn, nhưng họ sẵn sàng tuân theo các thủ tục, nghi lễ nặng nề, tốn kém trong cưới xin, ma chay, khao vọng, hội lễ... Những hủ tục này gây nên sự tiêu tốn kinh phí rất lớn cho cá nhân cũng như cho cộng đồng, do vậy dẫn đến sự đói nghèo của nhiều gia đình nông dân. Đây là một vật cản lớn trong quá trình hội nhập kinh tế của người nông dân Việt Nam.
Ngày nay, văn hoá làng xã còn ảnh hưởng cả đến đời sống đô thị, khiến cho đô thị Việt Nam vẫn còn phảng phất những nét, phong cách của nông thôn.
Như vậy, để thực hiện thành công quá trình CNH - HĐH đất nước, cùng với những nhiệm vụ chính trị khác, chúng ta cần khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của một số yếu tố tâm lý. Đây là một nhiệm vụ quan trọng.
Theo: Nguyễn Hồi Loan - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn 

Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2016

Người nông dân và vị giám đốc...

Dù đang ở vị trí giám đốc tài ba hay chỉ là một người nông dân bình thường, ai cũng sẽ có lúc rơi vào trạng thái mệt mỏi và muốn buông tay. Hãy nhớ kỹ bốn triết lý sống sau để được thanh NHÀN suốt cả cuộc đời.
Một ngày nọ, vị giám đốc tài ba cảm thấy quá nhiều vấn đề xảy đến với mình. Ông không thể có một giấc ngủ trọn vẹn, đôi mắt ông thâm quầng vì thiếu ngủ, vầng trán ông oằn trĩu những suy tư,… Mỗi sáng thức dậy, ông phải khoác lên mình chiếc áo giáp đầy bản lĩnh, dù trong lòng vẫn đau đáu về công việc và sự nghiệp,… về những chiến lược. Đã có lúc ông muốn buông xuôi và bỏ cuộc…
Thế rồi, ông quyết định gác lại tất cả để đến một vùng đất xa xôi hẻo lánh. Nơi mà chỉ có cây cỏ, nước, đất,… và những người nông dân. Ông nhìn thấy những con đường đất ngoằn ngèo khúc khuỷu, những cánh đồng xanh mướt tới tận chân trời, những cánh chim chiều chậm rãi bay về tổ,… sâu thẳm ông nhìn thấy sự thanh thản đến hoang sơ.
Ông tìm đến nhà của một bác nông dân để xin “ở nhờ”. Ông mở lời với bác nông dân: – Bác có thể cho tôi ở nhờ nhà bác vài ngày được chứ? Mỗi ngày tôi sẽ trả bác 10 đồng, và mỗi ngày bác phải cho tôi làm chung những công việc của bác. Bác nông dân đồng ý.

Ngày thứ nhất: Bác nông dân dẫn vị giám đốc tới một mảnh đất hoang rất rộng lớn và hai người bắt đầu cuốc đất. Được một lát vị giám đốc người đẫm mồ hôi và ngội bệt luôn xuống đất rồi thở hổn hển. – Bác không thấy mệt sao? Vị giám đốc hỏi. – Có, một chút. Bác nông dân trả lời. – Bác định một mình cuốc hết cả mảnh đất rộng lớn này sao? Nếu là tôi chắc tôi sẽ bỏ cuộc thôi. Vị giám đốc nói tiếp. – Bỏ cuộc ư, vậy mai tôi chẳng biết sẽ cho ông làm công việc gì cả. Bác nông dân trả lời rất tự nhiên.
“Không bao giờ bỏ cuộc vì bỏ cuộc thì ngày mai ta sẽ chẳng biết làm gì.”
Ngày thứ hai: Bác nông dân dẫn vị giám đốc tới một mảnh đất đã được trồng sẵn những luống khoai xanh mượt. Bác nông dân dùng dao tỉa hết những cây khoai xanh tốt chỉ để mỗi bụi một cây. Vị giám đốc thấy làm lạ: – Sao bác lại tỉa hết đi, bụi khoai đang xanh tốt mà? Bác nông dân cười và trả lời: – Nếu không tỉa đi thì sẽ chẳng có củ khoai nào cả mà chỉ toàn lá khoai thôi. Thế là hai người cùng nhau tỉa những bụi khoai xanh tốt.
“Lúc bạn cảm thấy cuộc sống thoải mái nhất là lúc bạn cần phải tỉa đi những thứ không cần thiết.”
Ngày thứ ba: Bác nông dân dẫn vị giám đốc tới một ruộng khoai đã tàn héo và khoe đây là thành quả bao ngày vất vả của mình. - Thành quả sao? Tôi thấy đây là ruộng khoai bỏ đi mà. Vị giám đốc thắc mắc. - Không đâu, bên dưới đám lá tàn lụi kia là những củ khoai béo tròn đó. Tôi đã trồng khoai 40 năm nay và tôi biết rõ điều này. Bác nông dân mỉm cười.
“Hiểu rõ những gì mình làm và tin tưởng vào nó.”
Ngày hôm sau vị giám đốc trở về công ty. Trước khi về bác nông dân có trả lại cho vị giám đốc 31 đồng. Vị giám đốc rất thắc mắc vì hành động này của bác nông dân. Bác nông dân nhún vai và nói:
“Tôi chỉ lấy phần của tôi, phần của ông ông giữ lấy đi…”
Vị giám đốc bừng tỉnh vì điều này, về tới công ty ông đăng ngay lên facebook của mình dòng status: “TÔI CHỈ LẤY PHẦN CỦA TÔI, PHẦN CỦA BẠN BẠN GIỮ LẤY ĐI…”
Nguồn: 8hay.com

Thứ Tư, 10 tháng 8, 2016

Người nông dân thích 1 chữ "Nhàn"

Nhàn...

Tác giả: Nguyễn Bỉnh Khiêm

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chỗ lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu, đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao