Thứ Tư, 12 tháng 4, 2017

Nông dân lập trình

Tác giả: Nguyễn Thành Nam


Trong buổi thăm chúc Tết FPT sáng 7/2, Chủ tịch UBND Đà Nẵng bày tỏ mong muốn: “FPT phải làm sao để các cậu bé chăn bò nghèo cũng có cơ hội vào tòa nhà này làm việc”.
Lời nhắn nhủ của Chủ tịch Đà Nẵng khiến tôi nhớ lại giai đoạn đầu thế kỷ, khi anh em bắt đầu mở công ty phần mềm FSoft. Bạn tôi, một tiến sĩ kinh tế nói: “Nam, mày không thể thành công nếu không lôi được nông dân vào cuộc. Công nghiệp tức là phải nói đến số đông, dù có là công nghiệp phần mềm”.

Bạn tôi không phải người nói suông. Bản thân anh mở một công ty phần mềm, chỉ nhận các cháu học lớp 12 ở làng mà không thi được đại học. Anh sống tốt, mở chi nhánh ở Singapore luôn.

Tôi cũng là người tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân (mà ở ta nhân dân tức là nông dân, đại đa số).

Bởi thế những năm đầu, biểu tượng của công ty chúng tôi là chị Nguyễn Thị Lan Hương, cuối tuần nào cũng về nhà cấy, nhổ cỏ cho mấy sào ruộng của gia đình ở Đông Anh. Sau này, họa sĩ lấy cảm hứng để thiết kế nên talisman (phù hiệu) của FSoft là chàng Cuder, nông dân cuốc đất trên cánh đồng số. Bây giờ Hương đã làm phó giám đốc một đơn vị kinh doanh chiến lược của công ty.

Có lần một nhân viên của FSoft được khách hàng sang tận nơi khen thưởng vì đã fix được bug mà họ mãi không sửa được. Tôi đã về quê, nói chuyện với bố mẹ em. Hóa ra họ là những người nông dân hết sức bình thường, tần tảo làm ruộng, nấu rượu nuôi con. 

Mỗi lần về quê như vậy, các cô các bác đã tiếp cho tôi biết bao sức mạnh để đi tiếp.

Bởi vậy, tôi thấy không thể hiểu được, sau bao nhiêu năm, các trường đại học về CNTT vẫn không thể nào cung cấp đủ số lượng, chứ chưa nói gì đến chất lượng, cho các công ty phần mềm đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. Theo số liệu tôi có, thì cả nước mỗi năm có 17.000 sinh viên CNTT tốt nghiệp, trong khi đó riêng nhu cầu tuyển dụng của chúng tôi đã là 3.000 người. Con số này của Ấn Độ là khoảng 2 triệu. Ngay cả tính trên tỷ lệ so với dân số, thì tỷ lệ số kỹ sư CNTT các bạn đào tạo được, cũng gấp 8,5 lần nước ta. Cứ hơn 600 người Ấn thì có một kỹ sư CNTT.

Sở dĩ tôi so với Ấn Độ, vì tỷ lệ người dân nông thôn ở bạn và ta là ngang nhau, thậm chí bạn nhỉnh hơn một chút, 67% so với 66%. Xuất phát điểm không khác nhau là mấy, thậm chí nếu xét đến tiến trình “xóa đói giảm nghèo” trong nửa thế kỷ qua thì bạn còn phải học ta. Nhưng bây giờ nơi đó đã là một trung tâm CNTT của thế giới. 

Trên tạp chí Forbes năm ngoái, có câu chuyện về Varun Chandran, một thanh niên từ nông thôn Ấn Độ, nhà nghèo tới mức không có tiền đi học. Cậu vừa đi làm thuê, vừa học tiếng Anh, tìm hiểu về CNTT trong các quán cà phê Internet. Sau này, Varun lập một công ty phân tích và đào bới dữ liệu. Cậu quay trở về ngôi làng cằn cỗi của mình thuê chính những người nông dân trong làng làm việc, đào tạo họ thực hiện phân tích dữ liệu máy tính. Khách hàng của Varun có các tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới, và doanh thu mỗi năm cả triệu USD. Ai dám tin rằng “big data” sẽ được xử lý bởi những phụ nữ nông thôn làm quen với máy tính lúc nông nhàn? Varun tin, vì cậu từng làm được điều đó.

Sự khác biệt ở đây là do họ thông minh hơn ta, hay là độ lớn của ước mơ?

Có nhiều người vẫn lầm tưởng rằng chỉ có các bậc trí giả mới có quyền và khả năng tham gia vào cuộc cách mạng đang thay đổi thế giới.

Tôi thì tin rằng một chương trình đào tạo trong vòng 16-20 tháng với một chi phí đầu tư chấp nhận được cho gia đình, hoàn toàn có thể bắc cầu cho các cậu bé “chăn bò” từ miền Trung nghèo khổ và các vùng của đất nước có thể tham gia vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư này. Và đó cũng là chương trình mà tôi sẽ mời ông Chủ tịch Đà Nẵng đến tham quan. 

Tư duy của chúng tôi: Học những kỹ năng căn bản và quan trọng nhất là học cách tự học, rồi “a lê hấp”, nhảy vào cuộc. Công nghệ như một dòng sông chảy xiết. Tập ở trên bờ bao nhiêu cũng không đủ. Chỉ cần không chìm và biết định hướng. Dòng sông sẽ đưa bạn đến đại dương tri thức.

Tôi luôn chào đón bất kỳ cậu bé chăn bò nào đủ tham vọng để bắt đầu.

Sống khỏe...

GS. Nguyễn Lân Dũng
Tôi nghe được một câu rất hay và thấy thật đáng suy ngẫm. Đó là “Sống khỏe, chết nhanh, ít của để dành, nhiều người thương tiếc”.
Sống khỏe: Ai cũng thấy sức khỏe là vàng. Đời người là hữu hạn. Biết bao điều chúng ta hằng mong muốn được học hỏi, được cống hiến, được hưởng hạnh phúc… Nhưng không có sức khỏe thì không có gì hết. Những người bất hạnh nhất là những người thiếu sức khỏe. Ngày nay, nhờ tiến bộ lớn lao của y học mà rất nhiều bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đã bị đẩy lùi, tuổi thọ ngày một nâng cao. Ai cũng muốn trường thọ và cũng có một số biện pháp giúp sống lâu, khỏe mạnh, đó là:
- Tập thể dục: Vận động thường xuyên không chỉ giúp giữ gìn tính linh hoạt, đàn hồi và sự cân bằng của các khớp xương mà còn giữ cho trí não được minh mẫn và hệ tim mạch khỏe mạnh.
- Giảm stress: Theo một nghiên cứu trên những phụ nữ 100 tuổi của Trung tâm y khoa Boston (Mỹ), các cụ có cuộc sống tích cực, hoà đồng và thái độ ung dung thoải mái thì có khuynh hướng ít bị rối loạn thần kinh chức năng.
- Thời gian mang thai: Một số nghiên cứu mới đây trên Tạp chí Nature cho thấy, phụ nữ mang thai lần đầu trong độ tuổi 30-40 có khuynh hướng sống thọ hơn.
- Giấc ngủ: Một khám phá của Hiệp hội Ung thư Mỹ cho thấy, người ngủ quá nhiều có sức khỏe tệ hơn người ngủ đủ thời gian. Một người trung bình ngủ 7 giờ/ngày có tỷ lệ tử vong thấp nhất, còn 9 giờ/ngày có nguy cơ cao.
- Bữa ăn: Chủ yếu ăn nhiều hoa quả, rau xanh ít qua chế biến, ngũ cốc dạng hạt như đậu Hà Lan, củ quả và uống đều đặn sữa chua. Lưu ý, dùng dầu ôliu thay cho mỡ động vật, dùng canxi có trong cải bắp, cải bông, cam chanh, uống đủ nước mỗi ngày giúp nước tiểu sạch. Ngoài ra có thể dùng trà xanh, trà đen... giải khát mỗi ngày.
Danh y Tuệ Tĩnh từ lâu đã đưa ra một bí quyết trường thọ rất nổi tiếng. Bí quyết này được tóm tắt trong hai câu dễ nhớ như sau: Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần/Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình.
Chữ bế tinh mà Tuệ Tịnh muốn nói đến là có ý khuyên chúng ta nên hạn chế tình dục, không nên hoang phí quá độ. Biết khi nào tiêu xài và khi nào nên lưu trữ. Tiêu xài thế nào là điều luôn luôn phải được nghĩ đến. Đó là chưa nói đến việc tiêu xài không có chọn lọc và cẩn thận sẽ đưa đến bệnh tật hiểm nghèo bất trị nữa. Dưỡng khí là đem năng lượng khí trời trong sạch vào hạ đơn điền để biến thành tinh khí, thành năng lực luân lưu khắp châu thân để bảo toàn sự sống. Phải bế tinh thì dưỡng khí mới có kết quả. Tinh cạn kiệt thì khí không thể điều động để trở thành năng lực nuôi sống, bảo toàn sức khỏe một cách tốt nhất được. Tồn thần cũng phải được hiểu là “giữ thần”. Thần được lưu giữ nhờ sự bình an trong tâm hồn, nhờ giấc ngủ yên lành không mộng mị. Quả dục là giảm thiểu sự ham muốn, sự đòi hỏi, sự thèm khát. Tham vọng càng nhiều, thất vọng càng lớn. Chính vì lòng ham muốn này đã dẫn dắt không biết bao nhiêu người đi vào vực sâu, mất an vui, hạnh phúc và gần nhất là sức khỏe bị suy mòn, tinh thần bị lụi bại. Vì thế, nếu muốn khỏe mạnh và sống lâu thì phải biết chế ngự lòng ham muốn, tính tham lam, thèm khát. Thủ chân tức là luôn luôn theo đuổi một điều gì mình cho là chân lý, là lý tưởng. Đời người phải hướng về một mục đích nào đó để phục vụ, để thờ phụng thì cuộc sống mới có ý nghĩa. Thật là tội nghiệp cho ai đó cứ tưởng phương tiện là mục đích. Nếu biến phương tiện thành mục đích thì con người sẽ trở thành nô lệ cho những đối tượng tầm thường. Rất nhiều người coi tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, danh vọng, sắc đẹp là mục đích trong khi chúng chỉ là phương tiện. Cả đời họ chỉ lo chạy theo những thứ vật chất mau đổi thay, mau tan rã, không tồn tại lâu dài này. Tự biến mình thành nô lệ mà mình không bao giờ tỉnh thức. Luyện hình được hiểu là rèn luyện cơ thể. Nói một cách thật dễ hiểu là tập luyện cho thân hình luôn luôn khỏe mạnh, cường tráng. Nhưng luyện hình mà Tuệ Tĩnh muốn nói không đơn giản chỉ là những động tác thể dục bình thường mà là những cách tập luyện toàn diện giúp cho nội lực luôn sung túc và đả thông được các huyệt đạo trong lục phủ, ngũ tạng. Cách luyện hình của người xưa tại Á Đông được truyền bá giới hạn trong các môn phái yoga, thiền và nhất là trong các môn phái khí công. Để đạt được cả hai phần thể chất và tinh thần, Tiên thiên khí công vừa có các cách luyện tập vận khí, đưa năng lượng khí trời trong sạch vào trong cơ thể làm thông các huyệt đạo, vừa đưa khí vào để biến tinh khí thành thần để thay thế thức ăn, thức uống. Ngoài các cách tập luyện về phần làm khang kiện thể chất, Tiên thiên khí công cũng có phần tập an định về tinh thần để đạt được sự an lạc, tự tại. 
Từ xa xưa, con người đã dốc sức đi tìm các loại thuốc trường sinh nhưng không có cách nào thoát khỏi quy luật sinh-lão-bệnh-tử. Ai cũng mong muốn trường thọ để được sống lâu với con cháu, vui hưởng tuổi già. Nhưng có lẽ không ai muốn mình vì bệnh tật mà phải sống đời sống thực vật, sống mà không biết gì, gây khó khăn, vất vả cho con cháu. Chính vì vậy, khi đã hết mệnh thì nên nhắm mắt xuôi tay, từ biệt cõi đời một cách thanh thản. 
Chuyện ít của để dành có lẽ không trùng với tâm lý của nhiều người đương thời. Không ít người tìm đủ mọi cách, kể cả những cách phi đạo lý để tích lũy tiền bạc, nhà cửa, ruộng đất với mong muốn để lại sự vinh hoa, phú quý cho các thế hệ con cháu. Thực tế cho thấy, họ đã nhầm lẫn một cách tai hại. Con cái, cháu chắt đâu sống mãi được với kho tàng vật chất ấy. Ngược lại, có sẵn tiền của rồi còn cần gì học hành, phấn đấu. Kết quả là miệng ăn núi lở, của thiên trả địa hết. Và không ít những kẻ ăn không ngồi rồi ấy đã sa ngã vào con đường cờ bạc, nghiện hút, trai gái, thậm chí chết vì HIV/AIDS. Đấy là chưa kể đến sự mâu thuẫn lẫn nhau đến mất nhân tính do tranh giành của cải thừa kế. Tấm gương rõ nhất có lẽ ai cũng biết là việc quyết định sử dụng tài sản của người giàu nhất thế giới - ông chủ tập đoàn Microsoft nước Mỹ - Bill Gates. Trong di chúc soạn sẵn, ông chỉ dành cho mỗi đứa con của mình 10 triệu USD trong tổng số gần 53 tỷ USD giá trị gia tài của vợ chồng ông. Số còn lại, ông muốn chúng được chi dùng vào những việc công ích cho nhân loại, mà theo lời ông, số tiền đó quay lại với thế giới theo những cách ý nghĩa và hiệu quả nhất. 
Và cuối cùng, cũng là thành quả lớn nhất của một đời người sống và làm việc trong sáng, hữu ích - đó là để cho nhiều người thương tiếc. Tôi không bao giờ quên được cảnh nhân dân ta, cả già lẫn trẻ, đã khóc nức nở như thế nào khi nghe tin Hồ Chủ tịch qua đời. Sự thương tiếc Người là sự thương tiếc tận đáy lòng vị Cha già dân tộc đã hy sinh suốt cuộc đời vì hạnh phúc lâu dài của toàn thể nhân dân ta. Khó có ai ví được với Người, nhưng biết bao nước mắt đã tuôn chảy một cách chân tình của những người tham dự các buổi tang lễ những liệt sĩ, những học giả, những nghệ sĩ, những thầy giáo, thầy thuốc - những người đã để lại trong tâm khảm mọi người về một cuộc sống tốt đẹp, thủy chung, cùng với những hy sinh, những cống hiến lớn lao cho đất nước. 
 
Tấm gương của những bậc trưởng lão sống suốt đời gương mẫu sẽ là của để dành quý giá nhất cho con cháu và những người thân thiết. Đó là bia mộ tinh thần còn mãi với thời gian và lưu giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Còn gì sung sướng hơn khi được thanh thản về cõi vĩnh hằng khi không có gì phải ân hận trong suốt cuộc đời mình. Muốn được như vậy đâu có dễ. Phải vượt qua mọi cám dỗ của hư danh, tiền bạc, địa vị, dục vọng để sống thật có ích cho đất nước và để lại tấm gương tốt lành nhất cho các thế hệ con cháu.           

Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2017

Bài thơ “Nông dân": Gai đấy nhưng mà thật!

(Dân Việt) Với tôi “Nông dân” là bài thơ được in nhiều nhất, tái bản nhiều nhất, đặc biệt ở các tạp chí của Hội Nông dân địa phương thời kỳ đổi mới. Nhiều bạn đọc gần xa đã liên hệ với tôi, bày tỏ sự đồng cảm và suy nghĩ của họ sau khi đọc bài thơ.
Nhiều bài học từ nông dân
Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân rất nghèo ở xã Phú Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, cách Ngã ba Ðồng Lộc 8km. Xã Phú Lộc và xã Ðồng Lộc cùng nằm trên QL 15, tuyến đường lửa không lúc nào ngớt bom đạn. Bom đạn nhiều đến nỗi, ruộng đồng bị biến dạng vì hố bom, mẹ đặt lưỡi cày chênh chếch miệng hố bom. Tại sao mẹ đi cày mà không phải là cha? Vì tất cả thanh niên trai tráng, đàn ông đều nhập ngũ hay đi thanh niên xung phong, kể cả người đã 3-4 con.
 bai tho “nong dan": gai day nhung ma that! hinh anh 1
 Nông dân thu hoạch lúa ở Hoài Đức, Hà Nội. Ảnh: Đàm Duy
Nhưng những chàng trai rồi cũng chết, gục mãi trong mùi đất khi chưa biết mùi đời. Anh trai tôi trong số đó. Sau giải phóng miền Nam năm 1975, người nông dân trở về với chiếc ba lô 2 bộ quân phục nhẹ tênh với những thương tật và mọi cơn bệnh oái oăm. Lại lội bùn và ngửi đít trâu. Hồn nhiên chết và hồn nhiên sống.
Có lẽ hiện thực như thế nên khi học những bài thơ kháng chiến nói về người nông dân mặc áo lính như “Ðồng chí” của Chính Hữu, “Nhớ” của Hồng Nguyên là tôi cảm được ngay và không nguôi xúc động…
Người nông dân đã hy sinh như vậy suốt cả chiều dài lịch sử nhưng không một đền đáp. Khắc khoải ấy trong tôi càng ngày càng lớn khi thấy được những người có chức quyền luôn vẫy vùng để biến của chung thành của riêng, nhân cách rất kém nhưng miệng luôn nói lời hoa mỹ và đe dọa lập trường đối với người khác. Ðã thế, trong mọi giảng đường, mọi cuộc họp, cái gì xấu họ cũng đổ cho nông dân, nào là tư tưởng nông dân, lối sống nông dân... Ai cũng nói theo nhau. Làm như đất nước không tiến lên chủ nghĩa xã hội được, cuộc sống không phát triển được là vì nông dân.
 bai tho “nong dan": gai day nhung ma that! hinh anh 2
Niềm vui lao động. Ảnh: Đàm Duy
 Trong nhận thức của tôi, nông dân Việt Nam là cốt lõi, cùng với trí thức của họ đã làm nên dân tộc anh hùng, nhân văn, mẫn tuệ. Trước đây, tôi được học để phê phán chủ nghĩa thực dân đế quốc Mỹ và chủ nghĩa thực dụng Mỹ. Năm 2000, tại Washington, tôi gặp một giáo sư Mỹ. Ông ấy bảo: Cha ông các ông còn thực dụng hơn Mỹ, bằng chứng là những câu tục ngữ “Gió chiều nào che chiều nấy; Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Nông dân nói đấy. Nếu thay “thực dụng” bằng “thực tế”, nếu suy nghĩ sâu sắc, ta sẽ học được nhiều bài học từ nông dân!
Từ năm 1980, nhiều cái xấu và bất công trong xã hội bắt đầu vỡ ra. Câu thần chú “hiện tượng chứ không phải bản chất” không còn là con đê ngăn chặn dư luận bất bình. Nhiều đồng chí ưu tú, trung thực trong Ðảng đã nhận ra bệnh nói dối, bệnh quan liêu, cung cách làm ăn cũ là kẻ thù nguy hiểm và phát động phong trào Ðổi mới. Không khí Ðổi mới với khẩu hiệu “Nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã làm cho con người có lương tri hơn, dũng cảm hơn, xã hội có thêm sức mạnh tinh thần.
“Gai đấy nhưng mà thật”
"Trong nhận thức của tôi, nông dân Việt Nam là cốt lõi, cùng với tri thức của họ đã làm nên dân tộc anh hùng, nhân văn, mẫn tuệ”.
Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại
Tôi viết bài thơ “Nông dân” vào cuối năm 1989 với tình cảm của một nhà thơ nhưng với nhận thức và bức bối của một nhà báo  có những trải nghiệm thực tế nhất định để tin vào điều mình nói. Năm ấy, tôi 35 tuổi, mới cưới vợ vài tháng. Tôi nhớ đó là một đêm trời rét, cây bàng bên cửa sổ  run rẩy trút nốt những chiếc lá mong manh cuối cùng. Mưa. Không hiểu sao cứ mưa là tôi lại nhớ mẹ, nhớ quê làng thắt ruột.
Tôi thấy những làng quê sấp ngửa luống cày, tận hiến đến những đứa con cuối cùng cho nước nhưng sau mọi cuộc chiến tranh, người được chính quyền, được bổng lộc chưa bao giờ là người nông dân. Tôi thấy mình tệ với mẹ, với làng; cả xã hội đang tệ bạc với nông thôn, nông dân, nông nghiệp. Có người nói “Nông dân” không tư tưởng.
Câu thơ đầu tiên hiện lên, mở ra một mạch đi: Lấy hiện thực sinh động để chống lại những giáo điều, bênh vực cho người nông dân cả về quyền lợi vật chất và giá trị tinh thần. “Có người” tức là cả một mớ người nói lý luận suông, theo đuôi mà không hiểu biết, không có tình cảm gì với người nông dân. “Có người” tức là cả một mớ người làm cách mạng theo một mục tiêu đâu đâu chứ không phải vì số phận con người.
Trên chiếc giường cũ xin được, phải cưa ngắn đi để đặt cho vừa căn phòng 8m2 hẹp như cái ống cống ở tập thể báo Nhân Dân 187 Tây Sơn, tôi quay đầu lại với vợ hì hục viết. Vợ mới, không ngủ được đành thức theo, thỉnh thoảng góp ý; trở thành người đọc đầu tiên và là đồng tác giả. Cũng là người đầu tiên động viên: Ðược, được anh ạ! Bài thơ viết xong, trời sáng. Tôi lấy làm mãn nguyện, như cất được một gánh nặng bấy lâu.
Bài thơ có nhiều gai góc. Kể cả khuyên người nông dân không nên cả tin nữa Thờ Phật, thờ Tiên, thờ cả rắn, cả rồng/Cả tin quá, tin cả dì ghẻ ác. Kể cả cảnh báo rằng người nông dân khi tính sổ sẽ tính đến cùng Sống chết mấy lần nợ quyết trả bằng xong như cô Tấm, như Kiều. Một đất nước chín phần mười (ước lệ) đất nước nông dân mà không có chính sách đúng thì sẽ như ngồi trên một mầm họa!
Vì gai góc, tôi phải đem về báo địa phương, nhờ anh Duy Thảo, Khắc Hiển đăng trên Nghệ Tĩnh Chủ nhật năm 1989. Tôi đem tờ báo tặng đồng chí Phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân và bày tỏ tâm sự của mình. Ðồng chí ấy cho đăng trên Nhân Dân năm 1990. Ðồng chí Hữu Thọ đọc xong, bảo: Gai đấy nhưng mà thật!
In được ở Nhân Dân, giống như được cấp giấy miễn thị thực; bài thơ được rất nhiều báo đăng lại; được rất nhiều bạn đọc, nhất là những người nông dân học thuộc. Ðó là một hạnh phúc lớn của tôi. Sau bài “Nông dân”, tất cả bạn bè đều gọi tôi là “Nhà thơ nông dân”.
Với tôi đây là bài thơ được in nhiều nhất, tái bản nhiều nhất, đặc biệt ở các tạp chí các hội nông dân địa phương thời kỳ đổi mới. Nhiều bạn đọc gần xa đã liên hệ với tôi, bày tỏ sự đồng cảm và suy nghĩ của họ sau khi đọc bài thơ. Không ít người là nông dân thật sự, rất vui nói là tôi rất hiểu họ, “vẽ” đúng chân dung họ: “Con gà mất chửi ba ngày quyết liệt/Con gái gả chồng cả xóm có trầu vui!”. Anh Hà Thạch, hiện là Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh, thuộc lòng Nông dân từ đầu đến cuối, thường trêu tôi: Thằng cha này đúng là “phản động”, năm 1989 đã dám viết “Cái trói tay của công hữu màu mè” mà không sợ bị... còng tay!”.
Một cử chỉ xúc động, khiến tôi ghi nhớ suốt đời là Tết năm 2012 sang 2013, gia đình tôi được đồng chí Nguyễn Quốc Cường- Ủy viên Trung ương Ðảng, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam mời đến trụ sở của Hội tại phố Tôn Thất Thuyết đón mừng xuân mới cùng với toàn thể Văn phòng Hội, có cả nhà báo Lưu Quang Ðịnh- Tổng Biên tập Báo NTNN.  Ðồng chí Nguyễn Quốc Cường còn thay mặt Hội trân trọng tặng tôi 5 triệu đồng, coi như nhuận bút của bài thơ “Nông dân”. Ðây là số tiền nhuận bút lớn nhất của một bài thơ mà tôi nhận được, nhưng điều lớn hơn là tình cảm của anh Cường và Hội mà tôi không bao giờ quên.
Sau đó, anh Cường, chúng tôi và anh Ðịnh cùng chụp ảnh lưu niệm với nhau. Hôm đó, tôi tự thấy như mình được kết nạp vào Hội Nông dân Việt Nam.
Người nông dân đã hy sinh như vậy suốt cả chiều dài lịch sử nhưng không một đền đáp. Đã thế, trong mọi giảng đường, mọi cuộc họp, cái gì xấu người ta cũng đổ cho nông dân, nào là tư tưởng nông dân, lối sống nông dân… Ai cũng nói theo nhau.
Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại
Theo Danviet

Bài Thơ Nông Dân Của Nguyễn Sĩ Đại

NÔNG DÂN
                           Nguyễn Sĩ Đại
Có người nói nông dân không tư tưởng
Nông dân làm cản trở bánh xe lăn
Tôi đã thấy nông dân suốt một đời làm lụng
Nuôi cái ăn chung trên mảnh đất khô cằn.

Tôi đã thấy trên chiến trường ngã xuống
Những nông dân áo lính, máu tươi ròng
Chết tưới đất, sống ngày cày xới đất
Không bổng lộc nào theo đến luỹ tre xanh.

Tôi đã thấy những xiềng xích phong kiến
Cái trói tay của công hữu màu mè
Mấy chục năm kéo người xa ruộng đất
Mấy chục năm ròng cái đói vẫn ghê ghê.

Nghèo chữ quá nên trọng người hay chữ
Bóp bụng nuôi con thành ông trạng , ông nghè
Sáu mươi tuổi, mẹ còn cấy hái
Ông trạng áo dài, ông trạng sống li quê!
Dẫu năm khó, không quên ngày giỗ chạp
Nhớ người xưa, con cháu quây quần
Vâng, có thể nông dân nhiều hủ tục
Nhưng không yêu được họ hàng, yêu chi nổi nhân dân!

Tôi đã thấy tằng Bờm và mẹ Đốp
Còn sống chung với Bá Kiến, Chí Phèo
Con gà mất, chửi ba ngày quyết liệt
Con gái gả chồng, cả xóm có trầu vui.
Tôi đã thấy đổ mồ hôi, sôi nước mắt
Từ hạt lúa gieo mầm đến cấy hái phơi phong
Dăm bảy tạ vài trăm nghìn một vụ
Bữa tiệc xoàng của mấy "sếp" là xong!
 Có miếng ngon, nông dân dành đãi khách
 Thờ Phật, thờ Tiên, thờ cả rắn, cả rồng
 Cả tin quá, tin cả dì ghẻ ác
 Sống chết mấy lần, nợ quyết trả bằng xong!

Nông dân sống lặng thầm như đất
Có thể hoang vu, có thể mùa màng
Xin chớ mất, chớ niềm tin sai lạc
Chín phần mười đất nước - nông dân!
                                                             12- 1989
             "Trái tim người lính"- NXB Văn học-1997

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2016

Người nông dân và 3 điều ước - nhìn thấu tâm đố kỵ của con người

Có câu chuyện kể rằng, một vị Thiên sứ đến nhà một người nông dân và nói với ông ấy: “Thượng đế thấy con tốt bụng, nên ban cho con ba điều ước. Nhưng kèm theo một điều kiện: dù là con ước điều gì thì người hàng xóm của con đều có cơ hội được hưởng phúc gấp hai lần con”.
Đàn ông chỉ cần 3 ngày yêu đương là muốn "lên giường", còn phụ nữ thì cần 3 tháng!
Đức Phật bàn về chuyện ngoại tình, vợ chồng ngày càng chán nhau, hôn nhân ngày càng bất hạnh
Hãy sống thế này, cả đời phụ nữ sẽ không phải rơi giọt nước mắt nào vì đàn ông nữa
Nếu có 8 dấu hiệu này, khả năng lớn bạn sẽ có cuộc sống giàu sang, sung túc
 Người nông dân đó quá đỗi vui mừng, nói: “Hãy ban cho con một núi thóc gạo, để một năm trời con không lo thiếu lương thực”. Sáng sớm ngày hôm sau, quả nhiên trước cửa gạo chất thành đống tựa như một quả núi nhỏ. Lão nông dân vô cùng cao hứng, chuẩn bị tu sửa kho thóc để chứa số gạo kia. Thế nhưng, chợt ông lão nhìn thấy trước cửa nhà hàng xóm có đến hai đống gạo tựa như hai quả núi nhỏ, cặp vợ chồng hàng xóm này bình thường rất nghèo khó, nên mừng quýnh lên và vội vội vàng vàng ra sân mà vơ lấy, điều này khiến lão nông kia trong tâm không sao chịu nổi.

Mấy hôm sau, vị Thiên sứ kia lại đến, lão nông dân liền ước điều ước thứ hai: “Ước sao Thượng đế ban cho con một mụn con”. Quả nhiên, mười tháng sau, vợ của người nông dân liền sinh hạ một bé trai rất kháu khỉnh. Người nông dân vui mừng, mình đã có con trai, một việc đại hỷ đến nhường nào! Hàng xóm sau khi nghe tin vui, liền mang trứng gà sang chúc mừng, đồng thời cũng vui mừng mà báo tin vui cho lão nông dân kia: “Đêm hôm trước, bà nhà tôi cũng vừa sinh hạ, còn sinh đôi nữa”.

Lão nông dân trong tâm vô cùng khó chịu, hàng xóm kia vừa nghèo vừa không có khả năng, người vợ thì mặt toàn nếp nhăn, vừa thấp vừa xấu, vì cớ gì mà lại sinh đôi được một trai một gái kia chứ?

Nhá nhem tối ngày hôm đó, Thiên sứ lại một lần nữa hạ thế, muốn lão nông dân đề xuất điều ước thứ ba của mình. Lúc này, lão nông dân quỳ trên mặt đất thống khổ nói: “Thưa Thiên sứ, cầu xin người hãy chém đứt một tay của con được không?”. Thiên sứ ngạc nhiên: “Vì sao lại thế?”. Lão nông dân nói: “Con quả thực không sao hiểu nổi, tại sao người hàng xóm của con lại được gấp đôi phúc báo? Tại sao thế ạ? Con thà mất đi một cánh tay, cũng là vì muốn cho ông ta bị mất đi hai cánh tay, làm vậy thì trong tâm con mới thấy đôi chút dễ chịu”.

Một lúc lâu không thấy Thiên sứ nói gì, lão nông dẫn liền ngẩng đầu lên nhìn Thiên sứ, thấy Thiên sứ lệ rơi đầy mặt, nói:

“Ngươi hà tất phải hủy hại bản thân, lại còn làm hại người khác nữa? Ngươi biết không? Ngươi từng tu đạo, chính vì bởi tâm tật đố không buông bỏ được mà tu không thành, kiếp này rơi rớt đến cõi hồng trần này mà chịu khổ. Còn người hàng xóm của ngươi, đã từng là sư phụ của ngươi, phúc đức của ông ấy vĩnh viễn lớn hơn của ngươi gấp bội, ông Trời hồi báo cho ông ấy là chủ yếu, ngươi vì sao không nghĩ cho thấu đáo thế?

Hơn nữa việc này, cũng là đã được an bài cả rồi. Nếu như ngươi có thể không đố kỵ như vậy, khi thấy hàng xóm có chuyện tốt, thì lẽ ra nên nói lời chia vui với họ, thì sinh mệnh của ngươi cũng sẽ đắc phúc báo còn hơn rất nhiều”.

Lão nông dân liền tỉnh ngộ, đáng tiếc là hiểu ra quá muộn màng, không còn cơ hội nữa, ông ấy nhìn Thiên sứ biến mất, mà ra sức đập đầu của mình xuống đất tỏ ý hối tiếc khôn thấu.


Lòng đố kỵ bất cứ ai cũng có, đó là điều chắc chắn. Tuy nhiên, cách người ta đối diện với nó như thế nào mới là vấn đề. Có những người giữ nó trong tim, âm thầm từng chút một, biến nó thành ám ảnh, còn có những người thông minh hơn, biến nó thành động lực để phấn đấu vươn lên.

Thấy người tài giỏi, danh tiếng tốt, đạo cao đức trọng, mình sanh lòng đố kỵ ghen ghét. Thấy người vinh hiển, mình lấy làm bực tức khó chịu, trong lòng xốn xang, lộ ra cử chỉ không bằng lòng rồi kiếm chuyện nói xấu, làm cho giảm uy tín người đó. Những chuyện như thế này không thiếu trong xã hội ngày nay.

Ganh ghét và đố kỵ hầu như thể hiện ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực và mọi mặt trong cuộc sống. Dễ nhận thấy nhất là khi ai đó có thành tích, địa vị, vinh dự, chuyên môn, bằng cấp, của cải, nhân duyên, gia đình hạnh phúc, thành đạt là nảy sinh ganh ghét, đố kỵ… Có người thể hiện lòng ganh ghét, đố kỵ ra ngoài, nhưng có người lại “chôn kín” ở trong lòng. Nhưng dù bất cứ hình thức nào, lòng ganh ghét, đố kỵ đều ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống và công việc.

Tật đố kỵ khác với sự ích kỷ nhưng lại bao hàm sự so sánh, hiềm hận và ganh tỵ. Vì sự ganh ghét trong việc thua kém hơn người khác nên ta tỏ ra thái độ đố kỵ, hiềm hận, thậm chí chúng ta còn mong muốn họ gặp thất bại trong cuộc sống.

Người có tâm đố kỵ, trước hết chính người chịu nhiều bất hạnh nhất. Họ đau khổ, dằn vặt, không có phút nào được yên. Phật dạy: “Khổ tâm lớn nhất của đời người là sự ganh ghét, đố kỵ. Người có tâm ganh ghét, tật đố sẽ khổ sở dai dẵng trong lòng.

Tâm đố kỵ không những hại mình mà còn hại ngươi khác, đối với người tu luyện lại càng cực kỳ nghiêm trọng. Vậy nên, chúng ta nhất định cần phải tu bỏ.

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2016

Người nông dân: NẾU ÔNG TRƯỞNG THÔN NGHĨ ĐƯỢC NHƯ...

Bài viết trên Facebook của anh CaoBao Do (https://www.facebook.com/caobao.do.90), NGƯỜI NÔNG DÂN tôi thấy có ông trưởng thôn nhà mình nên xin anh được đăng lại lên đây để bà con hàng xóm hiểu hơn về cái anh trưởng thôn đang bị gạch-đá, kể cũng tội!



Năm tôi lên 8 tuổi, máy bay Mỹ ném bom đánh sập một cây cầu cách nhà tôi 450 mét, làm chết và bị thương hàng chục người, thế là tờ mờ sáng hôm sau 4 chị em tôi (lớn nhất 10t, nhỏ nhất 2t) gồng gánh đi sơ tán xuống một vùng quê và sống tự lập ở đó 3 năm cho đến khi Mỹ ngừng ném bom miền Bắc lần thứ nhất.
Vì đang chiến tranh ác liệt, lương thực của nhà tôi chỉ toàn bột mỳ. Ở vùng quê không có lò làm bánh mỳ, không có bột nở để làm bánh bao, nên 4 chị em tôi toàn ăn bánh mỳ luộc, mỗi bữa được 3 nắm nhỏ bằng 1/3 nắm tay, rắn như cục gạch, đói thì hái rau dền dại mọc ven đường, rau lang, luộc ăn cho đỡ đói.
Hàng xóm nhà tôi, mấy bác nông dân khá hơn, có đủ cơm trắng, gạo thơm mùi lúa mới. Thương 4 chị em tôi mang tiếng là con cán bộ mà mỗi bữa chỉ có 3 nắm mì luộc đen nhẻm, rắn như đanh, nên cứ đến bữa cơm, bác hàng xóm lại sai cậu con trai mang một bát cơm trắng muốt đầy ắp sang, lấy cớ là thèm bánh mỳ để đổi cho cậu em út tôi, lấy đúng một cái bánh mỳ luộc. Còn tôi thì thỉnh thoảng bác dúi cho khi thì củ khoai lang, khi thì bắp ngô luộc, chưa kể khi thì bát canh cua, khi thì quả cà, gắp dưa muối.
Thế đấy người nông dân Việt Nam sống nặng tính cộng đồng, tình làng nghĩa xóm, khi hoạn nạn, khi khó khăn họ sẵn sàng sẻ chia, đùm bọc lẫn nhau, vượt qua hoạn nạn.
Cách đây 3 năm, cũng một đợt lũ lụt, tại 1 lớp học, có 45 học sinh, hầu hết gia đình các em đều mất trắng, thế nhưng đoàn từ thiện chỉ có 20 xuất quà và đề nghị cô giáo tổ chức bình bầu chọn ra 20 em nhà nào nghèo, khổ nhất. Khi bình bầu, nhìn những ánh mắt thơ ngây trông ngóng của cả 45 em, nước mắt cô giáo chảy dài, vì không thể bầu được ai khổ hơn ai.
Với tư duy ấy, cách nghĩ ấy, ông trưởng thôn ở Ba Đồn, Quảng Bình đã thu lại tiền cứu trợ của 40 hộ và phân chia lại cho cả thôn hơn 400 hộ. Đấy chính là nguồn cơn của cơn bão dư luận lên án ông, chửi bới ông, dọa cách chức ông.
Là trưởng thôn, đã nhiều lần sau thiên tai, ông đã trực tiếp chứng kiến rất nhiều đợt, do thiếu thông tin, các nhà tài trợ đã vô tình tạo nên sự bất bình đẳng: có nhà được nhận tài trợ 2-3 lần, có nhà thiệt hại không kém lại không được nhận tài trợ lần nào. Nhà được tài trợ nhiều thì vui mừng, nhà không được tài trợ thì buồn tủi, mà đã lũ, lụt thì nhà nào chả bị ngập, nhà nào chả thiệt hại, nhà nào chả thiếu ăn.
Là trưởng thôn, ông không thể không thương những nhà không được tài trợ, là trưởng thôn, ông có trách nhiệm xây dựng sự đoàn kết, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau trong thôn. Chính vì vậy ông chỉ nghĩ đơn giản: Đợt này thu lại của 40 nhà này, chia lại cho 400 nhà còn lại, đợt sau lại thu của 40 nhà khác, chia lại cho 400 nhà còn lại. Khi có nhà không đồng ý thu, ông nói nếu không "lần sau ông không đưa vào danh sách nhận cứu trợ nữa".
Từ câu nói "lần sau không đưa vào danh sách nhận cứu trợ", nhà báo và nhiều người suy diễn là ông doạ nạt. Thật ra ý ông là thế này: "lần sau khi có nhà tài trợ hỏi, tôi sẽ nói nhà bà nghèo, thiệt hại lớn nhất, nhưng vừa được nhận tài trợ 2 triệu rồi, còn nhà kia thiệt hại ít hơn, nhưng chưa được nhận tài trợ lần nào". Nói như thế là minh bạch, là đúng sự thật, và ông tin rằng nhà tài trợ sẽ không tài trợ tiếp nhà bà ấy nữa, vậy bà chọn đi.
Là nông dân, thật thà, chất phác, ông nghĩ sao nói vậy, không văn hoa, không dài dòng. Chúng ta đừng lấy tư duy của người có tri thức, có học hành, áp đặt, bắt ông phải nghĩ được như mình.
Có người trách "tiền tài trợ là tài sản của cá nhân người nhận, ông ấy không có quyền thu, thu là ăn cướp". Xin thưa rằng ông ấy chỉ chia tiền tài trợ, chứ có chia tài sản của dân đâu. Có người trách "ông ấy muốn thu lại để chia đều thì việc đầu tiên là ông ấy phải hỏi ý kiến nhà tài trợ". Xin thưa rằng nếu ông ấy đủ hiểu biết để nghĩ và làm như các vị muốn thì bây giờ ông ấy cũng đang mặc comple, ngồi máy lạnh, gõ bàn phím, chơi facebook, viết comment như các vị, có khi còn làm sếp các vị, việc gì ông ấy phải làm ông nông dân một nắng hai sương, việc gì ông ấy phải làm trưởng thôn để mà các vị ném gạch, ném đá không thương tiếc.
Đừng nghĩ trưởng thôn là cái chức gì to tát lắm, đừng nghĩ trưởng thôn như cường hào, ác bá. Trưởng thôn cũng chỉ là người nông dân, lam lũ, một nắng hai sương, thật thà, chất phác. Trưởng thôn là do dân bầu, cái chức mà người ta vẫn gọi là: "Ăn cơm nhà, vác tù và hàng Tổng" ấy, quyền rơm, vạ đá lắm, không sung sướng gì đâu.
Mọi người chửi bới, lên án ông, ông chủ tịch Tỉnh còn dọa cách chức ông.
Mà cần gì dọa nhỉ, "ông đã xin thôi mấy lần, mà đã cho ông nghỉ đâu". Hơn nữa, nhân dân bầu ông trực tiếp dân chủ đấy chứ, có phải ông chủ tịch Tỉnh ban phát đâu mà ông chủ tịch Tỉnh đòi cách chức ông.
Ờ mà cách chức thì ông nghỉ, về chăm lo cho mảnh vườn, ruộng lúa nhà ông, chăm lo cho vợ con ông. Ai chửi ông thì ra mà làm trưởng thôn đi, ông bầu cho đấy.
Theo  CaoBao Do - https://www.facebook.com/caobao.do.90

Thứ Tư, 19 tháng 10, 2016

Người nông dân: Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao

Nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia… Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.

Chủ tịch nước Trần Đại Quang phát biểu tại 
Chương trình “Tự hào nông dân Việt Nam” 
và trao danh hiệu “Nông dân Việt Nam xuất sắc 2016”.

Đó là một trong những nội dung bài phát biểu của Chủ tịch nước Trần Đại Quang tại chương trình “Tự hào nông dân Việt Nam” và trao danh hiệu “Nông dân Việt Nam xuất sắc 2016”, diễn ra vào tối 14/10 tại Hà Nội.
...
Theo Dân trí 
Đọc đến đây NGƯỜI NÔNG DÂN tôi thấy đã vui quá rồi, lâng lâng quá rồi. Chi tiết mời các bác đọc tại Dân trí (chi tiết bài viết trên Dân trí).